Tại hang Cốc Bó, Nguyễn Ái Quốc sống giản dị nhưng hoạt động cách mạng hết sức khẩn trương. Người xây dựng Cao Bằng thành căn cứ địa cách mạng, mở các lớp huấn luyện cán bộ, biên soạn tài liệu, và phát động phong trào Việt Minh - nơi tập hợp sức mạnh toàn dân tộc.
Những ngày tháng tại Pác Bó, với bài thơ giản dị:
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang",
Người đã thể hiện tinh thần lạc quan, kiên cường dù phải đối mặt với muôn vàn khó khăn.
Nhận rõ tình hình quốc tế và thực tiễn đất nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ngay lập tức cùng Trung ương Đảng vạch ra chiến lược, kế hoạch cụ thể để lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Quan trọng nhất, Người đặt trọng tâm vào việc khôi phục và củng cố tổ chức Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng từ cơ sở quần chúng. Từ nhận thức sắc bén rằng: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do," lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kết nối lý luận cách mạng với thực tiễn Việt Nam, tạo nền móng cho sự ra đời của Việt Minh – tổ chức tiền phong tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đứng lên kháng chiến.
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc về nước đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng chuyển sang giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Người đã thắp lên ngọn lửa cách mạng, khơi dậy ý chí và sức mạnh toàn dân tộc.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 không chỉ đưa ra đường lối đúng đắn mà còn củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề cho thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngọn lửa đấu tranh từ Pác Bó đã lan tỏa khắp cả nước, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào mùa thu lịch sử năm 1945.
Thông điệp ấy, đến hôm nay, vẫn vang vọng: Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, khi lý tưởng cách mạng hòa quyện cùng sức mạnh của quần chúng, mọi kẻ thù đều phải lùi bước.
Ngày 28/01/1941
* Sự kiện: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước
Ngày 28/01/1941, dấu mốc đặc biệt trong hành trình cách mạng Việt Nam được ghi dấu bởi sự trở về của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Đúng ngày mùng 2 Tết Tân Tỵ, Nguyễn Ái Quốc vượt qua cột mốc 108 biên giới Việt - Trung, đặt chân đến thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Sự trở về này không chỉ là cuộc hồi hương của một lãnh tụ mà còn là khởi đầu của một giai đoạn lịch sử mới.Đây không chỉ là sự trở về của một con người, mà còn là sự khởi đầu của một giai đoạn mới, nơi ánh sáng tư tưởng Marx-Lenin được soi rọi trực tiếp vào cuộc đấu tranh cách mạng trong nước.
Ngày 19/05/1941
* Sự kiện: Mặt trận Việt Minh ra đời tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (khóa I) của Đảng
Địa điểm: Khuổi Nậm, Pác Bó (Cao Bằng)
Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc về nước. Tháng 5/1941, Người triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (khóa I) của Đảng ở Khuổi Nậm, Pác Bó (Cao Bằng), quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng - khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc cho nhân dân, nên Mặt trận không thể gọi như trước mà phải dùng tên khác phù hợp hơn với nhiệm vụ cách mạng giai đoạn hiện tại. Bởi vậy, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới… vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh ra đời thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận dân tộc của nước mình. Mặt trận Việt Minh lấy lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu, khẩu hiệu chính là: phản Pháp - kháng Nhật - liên Hoa - độc lập.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ VII (11-1940), ngày 14-2-1941, Đội du kích Bắc Sơn chính thức được thành lập trong một buổi lễ tổ chức tại khu rừng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn). Đội du kích Bắc Sơn là lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã thay mặt Trung ương Đảng công nhận, trao nhiệm vụ và lá cờ đỏ sao vàng cho đơn vị vũ trang đầu tiên của Đảng gồm 32 chiến sĩ, do đồng chí Chu Văn Tấn và Lương Văn Tri chỉ huy, căn cứ của đội đặt ở khu rừng Khuổi Nọi.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ VII (11-1940), ngày 14-2-1941, Đội du kích Bắc Sơn chính thức được thành lập trong một buổi lễ tổ chức tại khu rừng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn). Đội du kích Bắc Sơn là lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn ra đời là một sự kiện trọng đại đầy ý nghĩa trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó là đội quân vũ trang đầu tiên do Trung ương Đảng trực tiếp tổ chức và lãnh đạo để chuẩn bị đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới: khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền