khởi nghĩa
bắc sơn - nam kỳ

Du kích tham gia cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn 

Ngày 27/9/1940
* Khởi nghĩa Bắc Sơn – cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên do Đảng lãnh đạo (Huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn) đánh vào đồn Mỏ Nhài (Châu Lỵ, Bắc Sơn)
Nhân cơ hội quân Pháp thua to trước quân Nhật, phải rút chạy về Thái Nguyễn qua châu Bắc Sơn. Ngày 27/9/1940, Đảng bộ và Nhân dân huyện Bắc Sơn (Lạng Sơn) tiến hành đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước, mở đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với lực lượng khoảng 600 người, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tấn công đồn Mỏ Nhài, giải phóng châu lỵ Bắc Sơn. Chính quyền thực dân tại đây bị xóa bỏ, nhiều sổ sách và giấy tờ của địch bị tiêu huỷ.

khởi nghĩa bắc sơn

Trong các ngày tiếp theo, quân khởi nghĩa tiếp tục phục kích, tiêu diệt các tàn binh Pháp, nhưng do lực lượng phân tán và thiếu sự chỉ đạo nhất quán, không thể mở rộng địa bàn. Khi thực dân Pháp tái chiếm Bắc Sơn và tiến hành khủng bố, phong trào gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Xứ uỷ Bắc Kỳ cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên chỉ đạo, thành lập Ban Chỉ huy khu và Đội du kích Bắc Sơn - đơn vị vũ trang đầu tiên của Đảng.
Mặc dù bị đàn áp khốc liệt và thất bại sau đó, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn để lại dấu ấn quan trọng. Đây là nơi khai sinh lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của Đảng, tiền thân của Việt Nam Cứu quốc quân. Khởi nghĩa Bắc Sơn đã để lại bài học quý giá về nắm bắt thời cơ và tổ chức lực lượng trong cách mạng Việt Nam.

Khởi nghĩa Bắc Sơn - Sáng ngời tinh thần đấu tranh giành độc lập

KHỞI NGHĨA NAM KỲ 

Ngày 23/11/1940 - 31/12/1940
* Sự kiện: Khởi Nghĩa Nam Kỳ
Địa điểm: Khởi nghĩa bùng nổ đồng loạt tại hầu hết các tỉnh Nam kỳ với tinh thần quyết liệt, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sóc Trăng...
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23 tháng 11 năm 1940 là cuộc nổi dậy rộng lớn nhất trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược sau khởi nghĩa 

Nhân dân Nam Bộ vùng lên đấu tranh trong khởi nghĩa Nam Kỳ 

Trương Định năm 1859. Cụ thể, trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, đặc biệt là tinh thần phản chiến của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay Nhân dân. Ngày 21/11/1940, Thường vụ Xứ ủy ra thông báo cho các cấp bộ Đảng nhất loạt phát động Nhân dân nổi dậy vào lúc 24 giờ ngày 22/11/1940. Thời điểm hành động nhất loạt ở các tỉnh Nam Kỳ là lúc 0 giờ ngày 22, rạng 23/11/1940, hiệu lệnh là đèn Sài Gòn tắt hoặc có tiếng súng nổ. 
Hội nghị Trung ương Ðảng họp tại Ðình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 6 đến 9/11/1940 nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước chưa chín muồi, đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Trung ương phái đồng chí Phan Đăng Lưu trở về truyền đạt quyết định của Trung ương cho Xứ ủy Nam Kỳ. Nhưng khi đồng chí Phan Ðăng Lưu về tới Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã ban hành tới các địa phương không thể thu hồi; một số cán bộ chủ chốt của Xứ ủy đã bị địch bắt, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch.

Khởi nghĩa bùng nổ đồng loạt tại hầu hết các tỉnh Nam Kỳ với tinh thần quyết liệt, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long... Lực lượng vũ trang và quần chúng đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường... Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập. Lần đầu tiên, cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng và trong nhiều cuộc biểu tình. Bọn phản cách mạng bị xét xử. Ruộng, thóc của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.

Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương “chia lửa” với Nam Kỳ. Từ việc rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường, cầu cống ngăn quân thù đàn áp. Nhưng thực dân Pháp khủng bố khốc liệt, càn quét các vùng khởi nghĩa, tiêu diệt chính quyền cách mạng, cho máy bay dội bom xuống làng mạc, thôn xóm. Tính từ ngày 22/11 đến ngày 31/12/1940, thực dân Pháp gây ra hơn 5.000 vụ bắt bớ; hàng ngàn người bị xử tử, tù đày, tra tấn vô cùng tàn bạo.

Khởi nghĩa Nam Kỳ 

Lược đồ khởi nghĩa Nam Kỳ. (Nguồn: Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng Thành phố Hồ chí Minh, Khởi nghĩa Nam Kỳ (1940) 

Khởi nghĩa Nam kỳ và những giá trị còn mãi 

Như vậy, khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại song có ý nghĩa rất lớn lao. Cuộc khởi nghĩa đã góp phần minh chứng tính chính xác và đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, tích cực chuẩn bị lực lượng chuyển sang đấu tranh vũ trang giành lấy chính quyền cách mạng về tay Nhân dân. Đồng thời, khởi nghĩa Nam Kỳ đã chứng minh rằng muốn lật đổ ách thống trị của thực dân đế quốc để giành độc lập tự do cho dân tộc, nhất thiết phải bằng khởi nghĩa cách mạng, bạo lực vũ trang của toàn dân, chứ không chỉ bằng đấu tranh chính trị đơn thuần.
Đến tháng 12/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui cuộc khởi nghĩa để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt. Thực dân Pháp nhân cơ hội này xử bắn nhiều đồng chí cán bộ kiên trung của Ðảng bị bắt từ trước khởi nghĩa, như: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu...

KHÁ PHÁ TRẢI NGHIỆM NGAY HÔM NAY!

NỀN TẢNG XÃ HỘI THÔNG MINH

Address: Khu Đô thị mới Dịch Vọng, Phường Dịch Vọng, Q. Cầu Giấy, TP Hà Nội

Hotline: + 0964 714 148

Email: info@yootek.vn

Website: yoolife.vn