Sau chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam và Campuchia đều khát khao hòa bình, độc lập và tự do để hàn gắn vết thương chiến tranh, cùng xây dựng một tương lai phồn vinh, thịnh vượng. Tuy nhiên, ngay khi lên nắm quyền tại Campuchia vào tháng 4 năm 1975, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đã phản bội lại chính nhân dân Campuchia và lợi ích dân tộc. Chúng cướp đoạt mọi thành quả cách mạng, thao túng quyền lực và thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại cực kỳ tàn bạo, phản động.
Hình ảnh chiến sĩ bảo vệ tổ quốc khao khát dành độc lập và tự do
Dưới ách cai trị của Pol Pot, hàng triệu người vô tội bị sát hại, đưa dân tộc Campuchia đến bờ vực diệt vong, đồng thời gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh khu vực Đông Dương. Một Campuchia từng phồn vinh đã trở thành đống đổ nát, hoang tàn, ngập tràn chết chóc và đau thương.
Không dừng lại ở đó, được sự hậu thuẫn từ các thế lực phản động quốc tế, Pol Pot-Ieng Sary chuyển sang chống phá Việt Nam một cách công khai. Từ năm 1975 đến 1978, tập đoàn Pol Pot liên tục tiến hành những cuộc xâm lược tàn bạo tại vùng biên giới Tây Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và luật pháp quốc tế, làm rạn nứt mối quan hệ láng giềng hữu nghị.
Trước những hành động ngang ngược ấy, Việt Nam đã kiên trì tìm kiếm giải pháp hòa bình, nhiều lần đề nghị đàm phán để giải quyết bất đồng. Nhưng tập đoàn Pol Pot không chỉ khước từ thiện chí mà còn đẩy mạnh xâm lược, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh tổng lực với sự hỗ trợ về vũ khí và cố vấn từ nước ngoài.
Đáp lại tình thế cấp bách, đầu tháng 12 năm 1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tổng phản công chiến lược trên biên giới Tây Nam, đồng thời phối hợp hỗ trợ lực lượng vũ trang Campuchia yêu nước lật đổ chính quyền Pol Pot-Ieng Sary. Từ ngày 23 tháng 12 năm 1978, quân và dân ta đã tiến hành những đòn phản công quyết liệt, giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Việt Nam khỏi quân xâm lược. Tiếp đó, với tinh thần quốc tế cao cả “giúp bạn là tự giúp mình”, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng yêu nước Campuchia tiến công giải phóng thủ đô Phnôm Pênh vào ngày 7 tháng 1 năm 1979 và toàn bộ đất nước Campuchia vào ngày 17 tháng 1 năm 1979.
Đoàn công tác của quân tình nguyện Việt Nam đến thăm, cứu trợ
đồng bào Campuchia ngay sau khi đất nước thoát khỏi
chế độ diệt chủng. (Ảnh tư liệu)
Thắng lợi của cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam không chỉ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam mà còn cứu nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng. Đất nước Campuchia đã giành lại quyền sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thực sự, đồng thời chặn đứng âm mưu chia rẽ khối đoàn kết bền vững giữa ba nước Đông Dương.
Ngay từ cuối năm 1978, với luận điệu "dạy cho Việt Nam một bài học" Trung Quốc đã âm thầm lựa chọn, điều động lực lượng binh lực cùng số lượng lớn trang thiết bị vũ khí áp sát trên toàn tuyến biên giới với Việt Nam. Từ tháng 1/1979, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh các hoạt động trinh sát vũ trang để chuẩn bị cho chiến dịch xâm chiếm dọc biên giới với Việt Nam.
Do tập trung quân đông, phía Trung Quốc đã cùng một lúc tấn công nhiều hướng, ồ ạt đánh liên tiếp đợt này đến đợt khác, với phương châm "lấy thịt đè người" không ngại thương vong. Vào 3 giờ 30 phút rạng sáng 17/2/1979, quân Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước ta, sau đó huy động 600.000 quân, hơn 500 xe tăng, xe bọc thép, hàng nghìn khẩu pháo các loại tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam dài hơn 1.400km.
Trong thời điểm đó, đất nước của chúng ta mới vừa ra khỏi chiến tranh, đang trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và giúp đỡ nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng. Trước tình cảnh Tổ quốc lâm nguy, thêm một lần nữa, quân và dân Việt Nam buộc phải cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình. Đây là thử thách đầy khắc nghiệt với dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân ta một lần nữa đã phát huy cao độ truyền thống cách mạng, kiên quyết chiến đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ Quốc.
Những người lính tuổi 18, 20 tham gia mặt trận Vị Xuyên trong cuộc chiến bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Ảnh tư liệu
Ngày 04/3/1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc. Sáng 05/3/1979, chương trình phát thanh 90 phút của Đài Tiếng nói Việt Nam phát bản tin đặc biệt: "Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý! Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta... Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc". Quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, ngày 05/3/1979 Quyết định tổng động viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước được ban hành và được đăng trên trang nhất báo Nhân dân ngày 06/3/1979.
Ám ảnh về chiến tranh biên giới phía Bắc 1979
Đối mặt với đội quân tấn công từ bên kia biên giới phía Bắc đông tới 60 vạn người cùng hàng nghìn xe tăng và pháo hạng nặng, Việt Nam vào ngày 17/2/1979 chỉ có lực lượng công an vũ trang, dân quân địa phương và 7 sư đoàn với tổng số quân khoảng 7 vạn người. Sự chênh lệch về lực lượng, về vũ khí trang bị là rất lớn. Thế nhưng, với tinh thần chiến đấu của quân và dân ta là anh dũng vô song. Lực lượng ít hơn đội quân Trung Quốc hàng chục lần nhưng quân và dân biên giới đã chiến đấu ngoan cường, anh dũng chặn đứng bước tiến của đội quân đông hơn gấp bội. Sự đánh trả dũng mãnh bảo vệ biên giới của quân và dân ta đã gây thiệt hại nặng cho Trung Quốc. Thiệt hại nặng nề trên chiến trường, bị dư luận thế giới lên án, Trung Quốc buộc phải rút quân vào ngày 06/3/1979.
Tóm tắt chiến tranh biên giới phía Bắc qua lời bài hát
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc năm 1979 đã khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Thế nhưng, để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh khắc nghiệt này, nhân dân Việt Nam đã phải chịu những tổn thất nặng nề: Hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ thương vong; hàng chục nghìn dân thường bị thiệt mạng; các thị xã: Cao Bằng, Lạng Sơn, Cam Đường, Lào Cai gần như bị phá hủy hoàn toàn. Tổng cộng có 320 xã, 735 trường học, 41 nông trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 38 lâm trường bị tàn phá; 400 nghìn gia súc bị giết, bị cướp. Khoảng 50% trong tổng số 3,5 triệu người ở 6 tỉnh biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Kết quả, quân và dân ta đã gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân (hơn 1/10 tổng quân số Trung Quốc huy động vào cuộc chiến tranh), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. "Như vậy, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược này, đối phương đã bị thất bại toàn diện về quân sự, chính trị, ngoại giao. Thất bại cả ở chiến trường, trong nước của họ và trên thế giới."
Ngày 15 tháng 12 năm 1982, Bộ Chính trị (khóa V) đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW với nội dung quan trọng: “Về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội.” Nghị quyết này đánh dấu bước điều chỉnh lớn trong tổ chức lãnh đạo, trong đó: không duy trì hệ thống cấp ủy từ Quân ủy Trung ương đến cấp trên trực tiếp cơ sở và không yêu cầu các tổ chức cơ sở đảng ra nghị quyết về quyết tâm chiến đấu hay các chỉ tiêu kế hoạch hoạt động của đơn vị.
Sự kiện này đã tạo nên tác động lớn, trực tiếp và sâu sắc đến công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Tổng cục Chính trị nhanh chóng triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện cơ chế lãnh đạo mới một cách thống nhất trên toàn quân, nhằm đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả.
Cuộc duyệt binh năm 1985, mang mật danh A-85, được nhiều người đánh giá là sự kiện duyệt binh có quy mô lớn nhất, hoành tráng nhất của nước ta không chỉ từ năm 1945 đến thời điểm đó, mà có lẽ còn kéo dài đến tận ngày nay. Cuộc duyệt binh huy động lực lượng hùng hậu, không chỉ là các khối bộ đội mà còn có sự tham gia của xe tăng, pháo tự hành, pháo phòng không, tên lửa và hàng chục máy bay. Đặc biệt, lực lượng không quân góp mặt với đội hình hoành tráng, làm nên dấu ấn khó phai trên bầu trời quảng trường Ba Đình lịch sử.
30 nghìn người tham gia cuộc duyệt binh năm 1985
Lực lượng không quân tham gia duyệt binh được lựa chọn kỹ lưỡng, đại diện cho sức mạnh của các quân binh chủng:
• 24 chiếc MiG-21 Bis từ Trung đoàn 927 và 921, biểu tượng của không quân tiêm kích.
• 12 chiếc Su-22M của Trung đoàn 923, đại diện không quân tiêm kích-bom.
• 12 chiếc An-26 từ Trung đoàn 918, thể hiện khả năng vận tải trên không.
• 9 chiếc Mi-24 và 3 chiếc Mi-8 của Trung đoàn 916, đại diện lực lượng trực thăng.
• 15 chiếc L-39 từ Trung đoàn 910, bay xếp hình số 40 trên bầu trời, tượng trưng cho 40 năm Quốc khánh.
Các hệ thống pháo phản lực BM-21 "Grad" thuộc Binh chủng Pháo binh tiến qua lễ đài
Ký ức Việt Nam: NHỮNG LỄ DUYỆT BINH | VTV24
Mặc dù thời tiết không thuận lợi, đội hình không quân vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, với tổng số 57 máy bay bay qua quảng trường Ba Đình. Đây vẫn là cuộc duyệt binh có số lượng máy bay tham gia đông đảo nhất trong lịch sử nước ta, tạo nên hình ảnh hoành tráng và đáng tự hào.
Kết hợp sức mạnh các quân binh chủng, cuộc duyệt binh năm 1985 không chỉ là sự phô diễn lực lượng mà còn khẳng định quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và sức mạnh tổng hợp của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong mọi hoàn cảnh.