* Sự kiện: Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập
* Địa điểm: Hương Cảng (Hồng Kông)
Cuối thập niên 1920, khi ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga lan tỏa, phong trào cách mạng Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, khẳng định nhu cầu bức thiết về một tổ chức chính trị thống nhất để dẫn đường. Từ năm 1929 đến 1930, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Tuy nhiên, sự hoạt động rời rạc của các tổ chức này đã đặt ra bài toán lớn về sự đoàn kết.
Nhận rõ tình hình, từ ngày 6/1 đến 7/2/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị, quy tụ đại biểu từ các tổ chức cộng sản. Bằng tầm nhìn chiến lược, Người đề nghị hợp nhất các tổ chức thành một đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, trong đó Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đảng xác định đường lối và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyển cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"', về phương diện chính trị là dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập". Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Đảng ta nêu hình thức tổ chức quân sự của Đảng là "tổ chức ra quân đội công nông", nghĩa là tổ chức đội quân công nông chiến đấu vì quyên lợi của công nhân, nông dân và tuyệt đại bộ phận nhân dân lao động trên đất nước Việt Nam.
Đến ngày 24/2/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cũng gia nhập, chính thức thống nhất ba tổ chức cộng sản thành một.
Về tên gọi, đồng chí Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam” không chỉ phù hợp về ý nghĩa lịch sử và địa lý, mà còn khẳng định vị thế duy nhất, độc lập. Tinh thần dân chủ, thảo luận sâu sắc của Người tại hội nghị đã trở thành chìa khóa cho sự đồng thuận cao giữa các đại biểu.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt lịch sử. Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có một tổ chức chính trị thống nhất, kiên định về tư tưởng, chặt chẽ về tổ chức, đủ sức lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do.
Hội nghị hợp nhất không chỉ mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam mà còn để lại bài học sâu sắc về đoàn kết, dân chủ và sự lãnh đạo sáng suốt. Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự sáng lập của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã trở thành ngọn cờ đầu dẫn dắt dân tộc trên con đường giải phóng.
“Một đảng kiên cường, một dân tộc vĩ đại, một sự nghiệp tất thắng!”
Tháng 2 – 4/1930
* Sự kiện: Phong trào bãi công ở đồn điền Cao su Phú Riềng, Nhà máy Sợi Nam Định, nhà máy Diêm Bến Thủy, thành phố Vinh
Những năm đầu thế kỷ XX, dưới ách thống trị và bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn về sự bất công và vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Các phong trào bãi công bùng nổ, trở thành những mốc son tiêu biểu trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc.
Tại "địa ngục trần gian" Phú Riềng, nơi "mỗi cây cao su mọc lên là một người công nhân Việt Nam ngã xuống", sự áp bức cùng cực đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, hơn 5.000 công nhân và người lao động đã bao vây chủ sở của Công ty Michelin, yêu cầu thực hiện 6 quyền lợi thiết yếu như cấm đánh đập, giảm giờ làm, và trả lương cho nữ công nhân nghỉ đẻ. Sự kiện này không chỉ gây chấn động Nam Kỳ mà còn vang dội tới Paris, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong phong trào công nhân.
Với sự tham gia của hơn 4.000 công nhân, phong trào đấu tranh tại Nam Định đã được tổ chức chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy. Phong trào kéo dài gần một tháng, buộc giới chủ phải nhượng bộ, tăng lương và giảm giờ làm. Đây là cuộc đấu tranh tiêu biểu của phong trào công nhân cả nước, phản ánh tinh thần đoàn kết và sức mạnh của giai cấp vô sản sau khi Đảng ra đời.
Tại vùng đất Nghệ Tĩnh, nơi phong trào yêu nước chuyển biến mạnh mẽ, công nhân Nhà máy Diêm đã tiến hành bãi công đòi cải thiện điều kiện làm việc. Những yêu sách thiết thực như tăng lương, giảm nóng, cải thiện môi trường lao động đã được đáp ứng. Chủ tư bản buộc phải tăng lương 30% và hứa chấm dứt đánh đập công nhân.
Những đợt đấu tranh quyết liệt của công nhân đã đem lại những quyền lợi thiết thực cho họ. Tại Nhà máy Diêm, chủ tư bản đã phải tăng lương nhất loạt 30% cho công nhân. Chúng còn hứa không đánh đập công nhân, mắc quạt máy, thay cai nam bằng cai nữ để tránh những hành vi bỉ ổi.
Những cuộc bãi công của giai cấp công nhân tại Nghệ - Tĩnh cũng như trên khắp cả nước chính là tiền đề cho những phong trào sau này. Như cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã nói “...không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong đó, công - nông đã vung ra nghị lực phi thường của mình, thì không thể có cao trào trong những năm 1936-1939…”
Tháng 9/1930
Sự kiện: Phong trào đấu tranh Xô Viết Nghệ Tĩnh
Trong bối cảnh Đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933), thực dân Pháp áp đặt chính sách bóc lột khắc nghiệt tại các nước thuộc địa, đẩy nhân dân Việt Nam, đặc biệt ở Nghệ An và Hà Tĩnh, vào cảnh cùng cực. Đói khát, sưu cao thuế nặng và áp bức chồng chất đã dồn công nông Nghệ Tĩnh tới bước đường cùng, thúc đẩy họ đứng lên phản kháng.
Ngày 12/9/1930, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh chính thức bùng nổ với cuộc biểu tình lớn tại Hưng Nguyên (Nghệ An). Khoảng 8.000 nông dân mang theo cờ đỏ và khẩu hiệu mạnh mẽ như "Đả đảo đế quốc", "Đả đảo phong kiến", "Chia lại ruộng đất", kéo về huyện lỵ, làm rung chuyển cả vùng. Đến gần thành phố Vinh, số lượng người tham gia lên tới 30.000 người, đoàn biểu tình xếp hàng dài hơn 4 km.
Trước sức mạnh của quần chúng, thực dân Pháp sử dụng lực lượng vũ trang và máy bay ném bom, sát hại 217 người và làm 125 người bị thương. Dù bị đàn áp tàn bạo, phong trào vẫn tiếp diễn với các hành động quyết liệt như phá nhà lao, đốt huyện đường và bao vây đồn lính khố xanh.
Tại các địa phương, chính quyền tay sai tan rã, nhiều lý trưởng, tri huyện bỏ trốn. Các "xã bộ nông" – tiền thân của chính quyền cách mạng – được thành lập, mang tên gọi "Xô Viết" nhằm tiếp nối tinh thần cách mạng từ Liên Xô.
Dù bị dập tắt bởi chính quyền thực dân và Nhà Nguyễn, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã trở thành biểu tượng của tinh thần đấu tranh kiên cường, thể hiện khát vọng độc lập, tự do và công bằng xã hội. Sự kiện này khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, trước sự đàn áp mạnh tay của Nhà Nguyễn và chính quyền bảo hộ Pháp, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh cuối cùng đã bị dập tắt. Dù thất bại, phong trào đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử cách mạng Việt Nam, thể hiện tinh thần đấu tranh quật cường và khát vọng độc lập, tự do của nhân dân.
Sự kiện: Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Tháng 10/1930, khi phong trào cách mạng Việt Nam dâng cao, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được triệu tập tại Hồng Kông (Trung Quốc). Đây là dấu mốc quan trọng, đặt nền móng cho việc củng cố tổ chức và định hướng lâu dài của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú, Hội nghị đã thông qua Luận cương chánh trị – văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng, xác định rõ đường lối cách mạng. Luận cương nêu rõ: Trước "nguy cơ chiến tranh của các nước đế quốc ngày càng gần", "Đảng phải hết sức khuếch trương công tác... một mặt tổ chức trong quân đội, một mặt tổ chức đội tự vệ của công nông".
Trước sự sụp đổ của chính quyền thực dân và phong kiến ở Nghệ - Tĩnh, các chi bộ và tổ chức Nông hội đỏ đã quản lý và điều hành mọi hoạt động trong lãng xã. Những người cách mạng đã lập ra chính quyền Xô viết - chính quyền Xô viết đầu tiên ở Việt Nam (chính quyền cách mạng sơ khai do giai cấp công nhân lãnh đạo).
Sau khi chính quyền Xô viết ra đời, thực dân Pháp và tay sai trở lại đàn áp phong trào cách mạng. Để bảo vệ chính quyền cách mạng, hầu hết các tổng, làng xã, thôn đều thành lập một lực lượng được gọi là Tự vệ đỏ. Đây là lực lượng nòng cốt hỗ trợ phong trào cách mạng của quần chúng và cũng chính là một trong những tổ chức tiền thân của lực lượng Công an nhân dân sau này. Đội tự vệ đỏ ra đời chính là hình thức sơ khai của đấu tranh vũ trang ở Việt Nam.
Các Đội tự vệ có nhiệm vụ chống lại thực dân Pháp, diệt ác, trừ gian, bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ chính quyền Xô-viết. Ngăn chặn mật thám Pháp, bọn Việt gian trà trộn vào hòng phá hoại các cuộc biểu tình; tổ chức tiêu diệt bọn phản cách mạng; tuần tra, canh gác bảo vệ làng xóm; bảo vệ an toàn các phiên xét xử bọn Việt gian; bài trừ hủ tục mê tín, dị đoan, cờ bạc, nghiện hút…
Những chiến sỹ của đội quân Tự vệ đỏ đã cùng với quần chúng nhân dân đấu tranh trấn áp những người phản cách mạng, làm lên thắng lợi đầu tiên của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.